|
Tổng Bí thư Tô Lâm. |
1. Trong mọi giai đoạn cách mạng, Đảng, Nhà nước ta
luôn đặc biệt coi trọng nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền
và sức chiến đấu của Đảng, tăng cường hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả hoạt
động của hệ thống chính trị. Đây là một trong những yếu tố then chốt
đưa Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành người cầm lái vĩ đại, người thuyền
trưởng tinh anh đưa con thuyền cách mạng Việt Nam vượt mọi thác ghềnh,
giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Điểm hội tụ chiến lược sau
40 năm đổi mới đất nước đang đem đến cơ hội lịch sử đưa đất nước bước
vào kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc; cũng đặt ra
yêu cầu cấp bách thực hiện quyết liệt cuộc cách mạng nhằm xây dựng hệ
thống chính trị thật sự tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng
yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn Cách mạng mới.
Mô hình tổng thể tổ chức bộ máy hệ thống chính trị nước ta từ năm
1945 đến nay cơ bản ổn định gồm 3 khối (Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội). Với cơ chế vận hành Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ, tổ chức bộ máy của từng
khối đã có sự điều chỉnh để đáp ứng yêu cầu cách mạng của từng giai đoạn
lịch sử. Từ Hội nghị Trung ương 6 khóa VI đến nay, khái niệm “Hệ thống
chính trị” chính thức được sử dụng đánh dấu sự phát triển tư duy, nhận
thức của Đảng về yêu cầu, nhiệm vụ đối với hệ thống chính trị trong thời
kỳ đổi mới.
Bước vào thời kỳ đẩy mạnh công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, xuất phát từ tầm quan trọng đặc biệt và đòi hỏi cấp
thiết từ thực tiễn phát triển nóng bỏng của đất nước, qua nhiều kỳ đại
hội, nhất là trong các đại hội gần đây, trong Văn kiện Đại hội Đảng lần
thứ IX, XII, XIII đều nhấn mạnh các nhiệm vụ cụ thể về tinh gọn tổ chức
bộ máy hoặc nghiên cứu xây dựng mô hình tổng thể tổ chức bộ máy hệ thống
chính trị trong giai đoạn mới. Từ Đại hội VII đến nay, Đảng ta liên tục
ban hành nhiều Nghị quyết, Kết luận để lãnh đạo thực hiện chủ trương
đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn tổ chức
bộ máy hoạt động hiệu lực hiệu quả, như: Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8
khóa VII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam; Nghị quyết số 10-NQ/TW, ngày 09/2/2007 Ban Chấp hành
Trung ương khóa X về đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan
Đảng, định hướng đổi mới tổ chức bộ máy Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể chính trị - xã hội; Nghị quyết số 17-NQ/TW, ngày 01/8/2007
của Ban Chấp hành Trung ương khóa X về đẩy mạnh cải cách hành chính,
nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước; Nghị quyết số
22-NQ/TW, ngày 02/2/2008 Ban Chấp hành Trung ương khóa X về nâng cao
năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng
đội ngũ cán bộ, đảng viên; Nghị quyết số 12-NQ/TW, ngày 16/01/2012 của
Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về một số vấn đề cấp bách về xây dựng
Đảng; Nghị quyết số 11-NQ/TW, ngày 03/6/2017 của Ban Chấp hành Trung
ương khóa XII về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa; Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành
Trung ương khóa XII về đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống
chính trị; Kết luận số 50-KL/TW, ngày 28/2/2023 của Bộ Chính trị về tiếp
tục thực hiện Nghị quyết số 18; Kết luận số 37-KL/TW, ngày 02/2/2009
của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện
chiến lược cán bộ đến năm 2020; Kết luận số 63-KL/TW, ngày 27/5/2013 của
Ban Chấp hành Trung ương khóa XI một số vấn đề về cải cách chính sách
tiền lương, bảo hiểm xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công và định hướng
cải cách đến năm 2020; Kết luận số 64-KL/TW, ngày 28/5/2013 của Ban Chấp
hành Trung ương khóa XI một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện
hệ thống chính trị từ Trung ương; Kết luận số 62-KL/TW, ngày 8/12/2009
của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội; Nghị
quyết số 39-NQ/TW, ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế
và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.
Thực hiện các Nghị quyết, Kết luận của Đảng, hệ thống tổ chức đảng
các cấp, bộ máy Nhà nước từ Trung ương tới cơ sở, tổ chức cơ quan Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội từng bước được đổi mới,
phát huy hiệu lực, hiệu quả; chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác
của từng tổ chức trong hệ thống chính trị được phân định, điều chỉnh hợp
lý hơn, từng bước đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Hệ thống chính trị cơ bản ổn định, phù hợp với Cương lĩnh
và Hiến pháp; bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước,
phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Thông qua vai trò, sức mạnh của hệ
thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta đã bảo vệ vững chắc
thành quả cách mạng; giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ Đảng, bảo vệ
chính quyền; kinh tế xã hội phát triển, không ngừng nâng cao đời sống
vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân. Những đổi mới về thể chế,
trọng tâm là đổi mới công tác tổ chức bộ máy hệ thống chính trị là một
trong những điều kiện cơ bản, quyết định đạt được những thành tựu vĩ đại
sau 40 năm đổi mới đất nước.
Qua 07 năm thực hiện Nghị quyết số 18 ngày 25/10/2017 của Ban Chấp
hành Trung ương khóa XII về đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống
chính trị chúng ta đã đạt được một số kết quả quan trọng, bước đầu tạo
chuyển biến tích cực trong đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy, nâng cao
hiệu quả hoạt động của các cơ quan, đơn vị, tổ chức trong hệ thống chính
trị. Tuy nhiên, nhận thức và hành động của một số cấp ủy, tổ chức đảng,
tập thể lãnh đạo, người đứng đầu ở một cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa
phương chưa đầy đủ, chưa sâu sắc, quyết tâm chưa cao, hành động chưa
quyết liệt, việc sắp xếp tổ chức bộ máy chưa đồng bộ, tổng thể, chưa gắn
tinh giản biên chế với cơ cấu lại... một số bộ, ngành còn ôm đồm nhiệm
vụ của địa phương, dẫn đến tồn tại cơ chế xin - cho, dễ này sinh tham
nhũng, lãng phí, tiêu cực... Chính vì vậy, cho đến nay tổ chức bộ máy
của hệ thống chính trị vẫn còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, nhiều đầu mối;
hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ; chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức, quan hệ công tác giữa nhiều cơ quan, bộ
phận chưa thật rõ ràng, còn trùng lắp, chồng chéo; phân định trách
nhiệm, phân cấp, phân quyền chưa đồng bộ, hợp lý, có chỗ bao biện làm
thay, có nơi bỏ sót hoặc không đầu tư thích đáng… Chất lượng tham mưu,
đề xuất của một số cơ quan, tổ chức đảng với Trung ương, Bộ Chính trị,
Ban Bí thư đối với một số lĩnh vực còn hạn chế; năng lực điều phối,
hướng dẫn, tổ chức thực hiện trong toàn Đảng chưa đáp ứng yêu cầu đề ra;
phân định phạm vi quản lý đa ngành, đa lĩnh vực của các bộ chưa triệt
để; một số nhiệm vụ liên thông, gắn kết nhau hoặc cùng một lĩnh vực
nhưng giao cho nhiều bộ quản lý. Tổ chức bộ máy của một số cấp, ngành
đến nay cơ bản vẫn giữ nguyên về số lượng, việc sắp xếp chưa gắn với
nâng cao hiệu lực, hiệu quả, xác định vị trí việc làm, cơ cấu lại đội
ngũ cán bộ. Bộ máy trong bộ, cơ quan ngang Bộ còn nhiều tầng nấc, có cấp
không rõ địa vị pháp lý; đơn vị trực thuộc có tư cách pháp nhân tăng,
gia tăng tình trạng “Bộ trong Bộ”. Tinh giản biên chế mới tập trung giảm
số lượng, chưa gắn với nâng cao chất lượng và cơ cấu lại đội ngũ cán
bộ.
Những tồn tại, hạn chế, sự chậm chạp, thiếu quyết liệt trong thực
hiện chủ trương đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị
gây ra nhiều hệ luỵ nghiêm trọng. Bộ máy cồng kềnh gây lãng phí và kìm
hãm sự phát triển, là một trong những nguyên nhân dẫn đến nhiều chủ
trương, chính sách của Đảng chậm đi vào thực tiễn cuộc sống hoặc một số
chủ trương không được triển khai hoặc triển khai hình thức trên thực tế.
Sự chồng chéo, phân định không rõ chức năng, nhiệm vụ dẫn đến không rõ
trách nhiệm, “lấn sân”, cản trở, thậm chí “vô hiệu hóa” lẫn nhau, làm
giảm tính chủ động, sáng tạo, dẫn đến năng suất lao động, hiệu suất công
tác thấp, đùn đẩy trách nhiệm, tiêu cực, cản trở phát triển, phát sinh
phiền nhiễu, giảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động. Tầng nấc trung gian dẫn
đến mất thời gian qua “nhiều cửa” thủ tục hành chính, gây cản trở, thậm
chí tạo điểm nghẽn, làm lỡ cơ hội phát triển. Chi phí vận hành hệ thống
tổ chức bộ máy lớn, làm giảm nguồn lực cho đầu tư phát triển, bảo đảm
quốc phòng, an ninh, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
So với những thay đổi to lớn của đất nước sau 40 năm đổi mới, sự phát
triển của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và những thành tựu khoa
học công nghệ; tổ chức bộ máy hệ thống chính trị nước ta tuy đã được đổi
mới ở một số bộ phận, nhưng cơ bản vẫn theo mô hình được thiết kế từ
hàng chục năm trước, nhiều vấn đề không còn phù hợp với điều kiện mới là
trái với quy luật phát triển; tạo ra tâm lý “Nói không đi đôi với làm”.
2. Thời điểm 100 năm đất nước ta dưới sự lãnh đạo
Đảng và 100 năm thành lập nước không còn xa, để đạt được các mục tiêu
chiến lược, không chỉ đòi hỏi những nỗ lực phi thường, những cố gắng
vượt bậc, mà còn không cho phép chúng ta chậm trễ, lơi lỏng, thiếu chính
xác, thiếu đồng bộ, thiếu nhịp nhàng trên từng bước đi; muốn vậy cần
khẩn trương thực hiện cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống
chính trị, với một số công tác trọng tâm, sau đây:
Thứ nhất: xây dựng và tổ chức thực hiện
trong toàn hệ thống chính trị mô hình tổng thể tổ chức bộ máy hệ thống
chính trị Việt Nam đáp ứng những yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn cách
mạng mới. Tập trung tổng kết 07 năm thực hiện Nghị quyết số 18 Hội nghị
lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khoá XII “Một số vấn đề về tiếp tục
đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt
động hiệu lực, hiệu quả”, đánh giá nghiên túc, toàn diện về tình hình và
kết quả đạt được, những ưu điểm, khuyết điểm, hạn chế, vướng mắc,
nguyên nhân và bài học kinh nghiệm trong quá trình thực hiện Nghị quyết;
đề xuất, kiến nghị với Bộ chính trị, Ban chấp hành trung ương về đổi
mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị. Tổng kết phải tiến
hành khách quan, dân chủ, khoa học, cụ thể, sâu sắc, cầu thị, sát đúng
với tình hình thực tiễn từ đó đề xuất mô hình tổ chức mới, đánh giá ưu
điểm và tác động khi thực hiện mô hình mới, phải bám sát Hiến pháp,
Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nguyên tắc của Đảng, các Nghị
quyết của Trung ương... bảo đảm tính tổng thể, đồng bộ, liên thông, một
cơ quan thực hiện nhiều việc, một việc chỉ giao một cơ quan chủ trì và
chịu trách nhiệm chính; khắc phục triệt để chồng chéo về chức năng,
nhiệm vụ, chia cắt về địa bàn, lĩnh vực; hạn chế tổ chức trung gian; xác
định rõ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm cụ thể trên cơ sở tính đảng,
tính hợp lý, tính hợp pháp.
Thứ hai: tập trung hoàn thiện thể chế theo
tinh thần “vừa chạy vừa xếp hàng” để nhanh chóng đưa chủ trương của Đảng
đi vào thực tiễn cuộc sống. Rà soát các quy định pháp luật có liên quan
để chủ động chuẩn bị sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới theo đúng quy
định, bảo đảm chủ trương của Đảng được triển khai nhanh nhất sau khi
được Trung ương thống nhất thông qua. Tập trung hoàn thiện pháp luật về
tổ chức, hoạt động của các cơ quan trong hệ thống chính trị, gắn với
tinh thần đẩy mạnh phân cấp, phân quyền với phương châm “địa phương
quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”, Trung ương, Chính
phủ, Quốc hội tăng cường hoàn thiện thể chế, giữ vai trò kiến tạo và
tăng cường kiểm tra, giám sát và cải cách tối đa thủ tục hành chính,
giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân và doanh nghiệp. Quy
định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong bộ
máy nhà nước, bảo đảm sự phân biệt rõ cấp ban hành chủ trương, chính
sách, pháp luật với cấp tổ chức thực hiện.
Thứ ba: gắn tinh gọn tổ chức bộ máy với cơ
cấu lại đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất, năng lực ngang tầm nhiệm vụ, biên
chế hợp lý, chuẩn hoá chức danh. Ban hành quy định về khung tiêu chuẩn,
tiêu chí bố trí cán bộ ở từng cấp, từ Trung ương tới cơ sở, từng loại
hình để chủ động rà soát, xác định có thể bố trí ngay. Đổi mới mạnh mẽ
công tác tuyển dụng, đào tạo, đề bạt, bổ nhiệm, luân chuyển, điều động,
đánh giá cán bộ theo hướng thực chất, vì việc tìm người, trên cơ sở sản
phẩm cụ thể đo đếm được, không có vùng cấm, không có ngoại lệ trong đánh
giá cán bộ. Có cơ chế hữu hiệu sàng lọc, đưa ra khỏi vị trí công tác
đối với những người không đủ phẩm chất, năng lực, uy tín và sử dụng đối
với người có năng lực nổi trội.
V.I Lênin khi nói về cải tiến bộ máy Nhà nước đã nhấn mạnh: “Phải
tuân theo qui tắc này: thà ít mà tốt... Tôi biết rằng giữ vững qui tắc
ấy và vận dụng được nó vào tình hình thực tế của chúng ta là khó khăn...
Tôi biết rằng sẽ phải kháng cự một cách mãnh liệt, sẽ phải tỏ ra kiên
trì phi thường... Song tôi vẫn tin chắc rằng chỉ có tiến hành công tác
đó, chúng ta mới có thể xây dựng được một nước cộng hòa thật sự xứng
danh là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô- Viết” ; xây dựng tổ chức bộ
máy hiệu lực hiệu quả là công việc khó khăn, phức tạp, đòi hỏi sự đoàn
kết, thống nhất, dũng cảm, sự hy sinh của từng cán bộ, đảng viên cùng
với quyết tâm rất cao của toàn Đảng, cả hệ thống chính trị, trước hết là
người đứng đầu cấp uỷ, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các
cấp, tất cả vì sự một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân
chủ, văn minh, sớm sánh vai với các cường quốc năm châu./.
--------------------------------------
(1) V.I.Lênin: Toàn tập, NXB Tiến bộ, Mátxcơva, 1979, t.45, tr.445.
Theo: Cổng TTĐT Bộ Công an